Từ “Sexual thoughts and fantasies” của Lm Romeo Intengan, SJ[1]
I. Định nghĩa và giả định cơ bản
Tư tưởng tình dục là tất cả những hình ảnh, bức họa trong trí và những giấc mơ ban ngày về những chuyện liên hệ tình dục, hoặc là nội dung của chúng chỉ là những tư tưởng, hình ảnh về cách ăn mặc, sờ chạm thân xác, hoặc là những tưởng tượng của việc thực hành tình dục.
Các nhà tâm lý cho rằng không ai hoàn toàn có thể tránh khỏi những tư tưởng và tưởng tượng tình dục. Họ cũng cho rằng một người, để đạt đến sự trưởng thành nhân vị, buộc phải học để kiểm soát các tư tưởng hay tưởng tượng đó.
Tư tưởng, mơ mộng là một phần rất quan trọng trong đời sống tâm lý của một người và chủ yếu để phát triển những hành xử êm đẹp và thành công. Tưởng tượng cũng có thể được dùng để dự định cho những hành vi tương lai, để quyết định về các phản ứng đối với các thách thức tương lai và để dự định trước những đáp ứng cho những tình huống có thể. Chúng có chức năng tích cực về việc thích ứng tâm lý của một người và trong việc làm chủ những lôi kéo tình dục của người đó. Điều này không có nghĩa rằng bất cứ lúc nào một người ước muốn làm như thế, là người ấy có thể đắm chìm trong việc tạo ra những giấc mơ ban ngày. Nhưng ức chế hoàn toàn tất cả các tưởng tượng tình dục cũng không phải là một giải pháp đích thật.
Luân lý truyền thống cho rằng đối với người bình thường, có một sự nguy hiểm kề cận của việc tăng dần từ việc chìu theo các hình ảnh tình dục, đến việc thích thú các tư tưởng, rồi đến các giấc mơ ban ngày được thêu dệt, đến hứng khởi tình dục, rồi đến thủ dâm hay giao hợp. Kiểm soát các hành vi tình dục do đó phải bắt đầu và tập trung vào những khởi phát đầu tiên yếu ớt của tư tưởng. Nếu không, khả năng kháng cự cám dỗ sẽ bị làm yếu đi nhiều.
Tuy nhiên nhiều nhà tâm lý ngày nay không đồng ý lắm với quan niệm truyền thống trên. Những gì được biết về toàn bộ thích ứng của tình dục không ủng hộ việc chối bỏ cách thụ động tư tưởng tình dục như là lợi ích tốt nhất của một người. Mỗi tư tưởng phải được xem xét về giá trị của nó. Một sự chối bỏ không phân biệt là một phương thế hành xử quá đơn giản. Một người phải học để chấp nhận các tư tưởng tình dục bình thường, đó là đánh giá cao sự hấp dẫn về cảm giác và các giá trị mà nó tạo ra, và lượng giá một cách đúng đắn khi nào thì một tư tưởng phải bị từ bỏ như là không được phép về luân lý.
II. Hướng dẫn cho việc lượng giá luân lý các tư tưởng và tưởng tượng tình dục
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (GLHTCG) số 2517: Trái tim là nơi của nhân cách luân lý “tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, tà dâm”. Cuộc chiến đấu chống lại dục vọng xác thịt phải cần đến việc thanh tẩy trái tim và thực thi đức tiết độ.
GLHTCG số 2518: mối phúc thứ sáu công bố: “Phúc thay ai có trái tim trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Những người có trái tim trong sạch là những người biết làm cho trí tuệ và ý chí của mình phù hợp với những đòi hỏi của sự thánh thiện và của Thiên Chúa…Có mối dây liên kết giữa sự trong sạch của trái tim, của thân thể và của đức tin.
GLHTCG số 2520: Cuộc chiến đấu chống lại dục vọng xác thịt và những ham muốn vô trật tự nhờ vào:
- Nhờ nhân đức và ơn khiết tịnh
- Nhờ ý hướng trong sạch
- Nhờ cái nhìn trong sạch: bên ngoài và trong lòng; nhờ kiểm soát được các giác quan và trí tưởng tượng; nhờ khước từ mọi vui thú trong những tư tưởng không trong sạch.
- Nhờ cầu nguyện.[2]
Cần chú ý hai yếu tố cơ bản trong việc lượng giá luân lý. Các tư tưởng và tưởng tượng có thể bị chống đối hoặc bởi vì sự xấu do chính nội dung của chúng hoặc bởi vì cường độ của chúng gây nên kích thích tình dục. Hơn nữa các tiêu chuẩn khác nhau phải được áp dụng cho các bậc sống khác nhau. Truyền thống chỉ phân biệt hai bậc sống là độc thân và có gia đình là không đầy đủ. Cần các sự phân biệt khác nữa như là các người trẻ đang hẹn hò nam nữ, người đính hôn, người đã lập gia đình, và giáo sĩ hay tu sĩ.
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (GLHTCG) số 2517: Trái tim là nơi của nhân cách luân lý “tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, tà dâm”. Cuộc chiến đấu chống lại dục vọng xác thịt phải cần đến việc thanh tẩy trái tim và thực thi đức tiết độ.
GLHTCG số 2518: mối phúc thứ sáu công bố: “Phúc thay ai có trái tim trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Những người có trái tim trong sạch là những người biết làm cho trí tuệ và ý chí của mình phù hợp với những đòi hỏi của sự thánh thiện và của Thiên Chúa…Có mối dây liên kết giữa sự trong sạch của trái tim, của thân thể và của đức tin.
GLHTCG số 2520: Cuộc chiến đấu chống lại dục vọng xác thịt và những ham muốn vô trật tự nhờ vào:
- Nhờ nhân đức và ơn khiết tịnh
- Nhờ ý hướng trong sạch
- Nhờ cái nhìn trong sạch: bên ngoài và trong lòng; nhờ kiểm soát được các giác quan và trí tưởng tượng; nhờ khước từ mọi vui thú trong những tư tưởng không trong sạch.
- Nhờ cầu nguyện.[2]
Cần chú ý hai yếu tố cơ bản trong việc lượng giá luân lý. Các tư tưởng và tưởng tượng có thể bị chống đối hoặc bởi vì sự xấu do chính nội dung của chúng hoặc bởi vì cường độ của chúng gây nên kích thích tình dục. Hơn nữa các tiêu chuẩn khác nhau phải được áp dụng cho các bậc sống khác nhau. Truyền thống chỉ phân biệt hai bậc sống là độc thân và có gia đình là không đầy đủ. Cần các sự phân biệt khác nữa như là các người trẻ đang hẹn hò nam nữ, người đính hôn, người đã lập gia đình, và giáo sĩ hay tu sĩ.
1. Các tư tưởng và tưởng tượng tình dục tiêu cực về mặt luân lý
a. Các tư tưởng và tưởng tượng tình dục tiêu cực bởi vì nội dung không thể chấp nhận được
Sự thưởng thức cố ý các hành vi trong tư tưởng (như ngoại tình, hiếp dâm, loạn luân, hành vi đồng tính luyến ái…) là vô luân vì chúng là các tội chống lại đức khiết tịnh. Cũng vậy, sự ưng thuận các hành vi chống lại đức khiết tịnh đã làm trong quá khứ, hay là hối tiếc không khai thác cơ hội phạm tội chống lại đức khiết tịnh, và nhất là, ước muốn làm các chuyện dâm ô. Ước muốn mạnh mẽ thực hiện các hành vi tình dục tội lỗi nghiêm trọng thì tự nó là tội lỗi nghiêm trọng và bị kết án rõ ràng bởi Chúa chúng ta: “Tôi nói với anh em rằng ai nhìn người phụ nữ một cách dâm dục thì đã phạm tội ngoại tình với người ấy trong lòng” (Mt 5, 28).
Nếu loại trừ các “ước muốn có hiệu lực’ (efficacious desire)- tức ước ao và ý định mạnh mẽ - làm các hành động dâm ô, thì người Công giáo thông thường không kết án các ý nghĩ không trong sạch như là những tội nặng, cũng không phân biệt gì thêm. Các tội trong tư tưởng thông thường ý muốn ít dứt khoát và ít mạnh mẽ hơn là các tội thực hiện bên ngoài, và do đó ít xấu hơn. Sự ưng thuận đối với các hành vi dâm ô trong những tư tưởng không trong sạch thông thường vẫn chưa trọn vẹn; nếu không nó đã luôn phát triển thành những ước muốn có hiệu lực; trong khi đó thông thường là nó không phát triển thành như vậy. Và ngay cả những gì đôi khi dường như là một ước muốn hiệu lực cũng thường tỏ ra đó là một sự đồng tình không hoàn toàn trong trường hợp cụ thể vốn có thể tạo ra cơ hội để biến ước muốn thành hành động.
Tuy nhiên, mặc dù các tư tưởng dâm ô trong phần lớn trường hợp không phải là các tội nặng, chúng là xấu, là tội lỗi và phải tránh xa. Những gì là bất luân thì ngay cả trong tư tưởng con người cũng không được ưng thuận. Mọi tội lỗi đều xảy ra trong trí óc trước khi nó được thể hiện ra bên ngoài. “Bởi vì từ lòng con người phát xuất các tư tưởng tội lỗi, giết người, ngoại tình, dâm dục, trộm cắp, chứng gian, vu khống. Tất cả những điều này làm ô uế con người” (Mt 15, 19).
b. Các tư tưởng và tưởng tượng tình dục tiêu cực bởi vì cường độ quá mạnh đến mức gây ra ham muốn tình dục
Các suy tư về ý nghĩa tâm lý của các tưởng tượng cho thấy rằng không phải mọi tư tưởng tình dục có thể một cách tự động bị xem như đáng trách và tội lỗi. Tư tưởng tình dục là một phần của đời sống tâm lý và nhiều khi có chức năng tích cực. Nhưng một người phải có khả năng kiểm soát chúng.
Các tư tưởng tình dục nói chung buộc phải bị xóa bỏ trước khi chúng đạt đến mức độ kích thích thân xác mạnh mẽ. Bởi vì trong trạng thái kích thích tình dục, sự tự do của ý chí trở nên yếu dần và khả năng kiểm soát các ước ao tình dục càng giảm dần. Tuy nhiên, sự kích thích gây ra do các tư tưởng tình dục liên quan đến tình yêu vợ chồng hợp pháp thì có thể hợp luân lý trong chừng mực nó không nhắm đến thủ dâm.
Khả năng của một người để làm một quyết định luân lý có trách nhiệm bị tổn hại một khi đam mê nổi dậy, và sự kiện này đã dẫn đến sự cấm đoán truyền thống về các tư tưởng và các hình ảnh khêu gợi tình dục ngay khi chúng khởi phát. Tuy nhiên một người có thể phát triển thói quen kiềm chế những tư tưởng (mà nội dung không phải là xấu) trước khi chúng đạt đến mức độ có cường độ nguy hiểm, và vẫn cho phép thưởng thức những tư tưởng vui thú bình thường. Sự phát triển loại này của quyết định có ý thức và quen thuộc, dựa trên cơ sở sự hiểu biết và làm chủ mức độ khởi hứng của cá nhân và đời sống tư tưởng bình thường, chống lại những căng thẳng tình dục xảy ra khi những tư tưởng bị đè nén hoặc vứt bỏ ngay khi chúng xuất hiện.
Khả năng của tội lỗi khởi phát khi một người, biết mức độ chung đáp ứng của mình với các tư tưởng qua kinh nghiệm, tiếp tục cho phép các tư tưởng đến mức gây ra kích thích tình dục rồi dẫn đến sự hài lòng chấp nhận tình dục hoàn toàn. Sự bất chấp vượt giới hạn một cách cố ý mà một người có bổn phận phải đặt cho chính mình trong đời sống tư tưởng cũng là tội lỗi. Tuy nhiên sự sa ngã bất chợt của một người mà khuynh hướng hướng về sự thích ứng tình dục có trách nhiệm cần phải được phán đoán một cách khác và nhẹ hơn. Chính xuyên qua kinh nghiệm và thử thách mà mỗi người phải biết được ngưỡng kích thích cá nhân của mình và chừng mực mà người đó phải vứt bỏ một tư tưởng như là không được phép bởi vì nó bắt đầu vượt khỏi sự kiểm soát của ý chí.
a. Các tư tưởng và tưởng tượng tình dục tiêu cực bởi vì nội dung không thể chấp nhận được
Sự thưởng thức cố ý các hành vi trong tư tưởng (như ngoại tình, hiếp dâm, loạn luân, hành vi đồng tính luyến ái…) là vô luân vì chúng là các tội chống lại đức khiết tịnh. Cũng vậy, sự ưng thuận các hành vi chống lại đức khiết tịnh đã làm trong quá khứ, hay là hối tiếc không khai thác cơ hội phạm tội chống lại đức khiết tịnh, và nhất là, ước muốn làm các chuyện dâm ô. Ước muốn mạnh mẽ thực hiện các hành vi tình dục tội lỗi nghiêm trọng thì tự nó là tội lỗi nghiêm trọng và bị kết án rõ ràng bởi Chúa chúng ta: “Tôi nói với anh em rằng ai nhìn người phụ nữ một cách dâm dục thì đã phạm tội ngoại tình với người ấy trong lòng” (Mt 5, 28).
Nếu loại trừ các “ước muốn có hiệu lực’ (efficacious desire)- tức ước ao và ý định mạnh mẽ - làm các hành động dâm ô, thì người Công giáo thông thường không kết án các ý nghĩ không trong sạch như là những tội nặng, cũng không phân biệt gì thêm. Các tội trong tư tưởng thông thường ý muốn ít dứt khoát và ít mạnh mẽ hơn là các tội thực hiện bên ngoài, và do đó ít xấu hơn. Sự ưng thuận đối với các hành vi dâm ô trong những tư tưởng không trong sạch thông thường vẫn chưa trọn vẹn; nếu không nó đã luôn phát triển thành những ước muốn có hiệu lực; trong khi đó thông thường là nó không phát triển thành như vậy. Và ngay cả những gì đôi khi dường như là một ước muốn hiệu lực cũng thường tỏ ra đó là một sự đồng tình không hoàn toàn trong trường hợp cụ thể vốn có thể tạo ra cơ hội để biến ước muốn thành hành động.
Tuy nhiên, mặc dù các tư tưởng dâm ô trong phần lớn trường hợp không phải là các tội nặng, chúng là xấu, là tội lỗi và phải tránh xa. Những gì là bất luân thì ngay cả trong tư tưởng con người cũng không được ưng thuận. Mọi tội lỗi đều xảy ra trong trí óc trước khi nó được thể hiện ra bên ngoài. “Bởi vì từ lòng con người phát xuất các tư tưởng tội lỗi, giết người, ngoại tình, dâm dục, trộm cắp, chứng gian, vu khống. Tất cả những điều này làm ô uế con người” (Mt 15, 19).
b. Các tư tưởng và tưởng tượng tình dục tiêu cực bởi vì cường độ quá mạnh đến mức gây ra ham muốn tình dục
Các suy tư về ý nghĩa tâm lý của các tưởng tượng cho thấy rằng không phải mọi tư tưởng tình dục có thể một cách tự động bị xem như đáng trách và tội lỗi. Tư tưởng tình dục là một phần của đời sống tâm lý và nhiều khi có chức năng tích cực. Nhưng một người phải có khả năng kiểm soát chúng.
Các tư tưởng tình dục nói chung buộc phải bị xóa bỏ trước khi chúng đạt đến mức độ kích thích thân xác mạnh mẽ. Bởi vì trong trạng thái kích thích tình dục, sự tự do của ý chí trở nên yếu dần và khả năng kiểm soát các ước ao tình dục càng giảm dần. Tuy nhiên, sự kích thích gây ra do các tư tưởng tình dục liên quan đến tình yêu vợ chồng hợp pháp thì có thể hợp luân lý trong chừng mực nó không nhắm đến thủ dâm.
Khả năng của một người để làm một quyết định luân lý có trách nhiệm bị tổn hại một khi đam mê nổi dậy, và sự kiện này đã dẫn đến sự cấm đoán truyền thống về các tư tưởng và các hình ảnh khêu gợi tình dục ngay khi chúng khởi phát. Tuy nhiên một người có thể phát triển thói quen kiềm chế những tư tưởng (mà nội dung không phải là xấu) trước khi chúng đạt đến mức độ có cường độ nguy hiểm, và vẫn cho phép thưởng thức những tư tưởng vui thú bình thường. Sự phát triển loại này của quyết định có ý thức và quen thuộc, dựa trên cơ sở sự hiểu biết và làm chủ mức độ khởi hứng của cá nhân và đời sống tư tưởng bình thường, chống lại những căng thẳng tình dục xảy ra khi những tư tưởng bị đè nén hoặc vứt bỏ ngay khi chúng xuất hiện.
Khả năng của tội lỗi khởi phát khi một người, biết mức độ chung đáp ứng của mình với các tư tưởng qua kinh nghiệm, tiếp tục cho phép các tư tưởng đến mức gây ra kích thích tình dục rồi dẫn đến sự hài lòng chấp nhận tình dục hoàn toàn. Sự bất chấp vượt giới hạn một cách cố ý mà một người có bổn phận phải đặt cho chính mình trong đời sống tư tưởng cũng là tội lỗi. Tuy nhiên sự sa ngã bất chợt của một người mà khuynh hướng hướng về sự thích ứng tình dục có trách nhiệm cần phải được phán đoán một cách khác và nhẹ hơn. Chính xuyên qua kinh nghiệm và thử thách mà mỗi người phải biết được ngưỡng kích thích cá nhân của mình và chừng mực mà người đó phải vứt bỏ một tư tưởng như là không được phép bởi vì nó bắt đầu vượt khỏi sự kiểm soát của ý chí.
2. Các phân biệt dành cho các bậc sống khác nhau
Người chưa lập gia đình có thể một cách hợp pháp suy tư về các tương quan tình ái với một người bạn có thể, cùng với một ý nghĩa của sự đánh giá cao cho những giá trị thiêng liêng gắn liền với tình dục. Các tư tưởng này không dâm dục cũng chẳng phải không đoan trang. Điều này đúng đặc biệt cho những người trẻ đang hẹn hò. Các hoạt động hẹn hò sẽ khơi dậy tư tưởng tình dục và điều ấy là bình thường. Con người ở tuổi hẹn hò phải xem xét phương diện tình dục trong sự lượng giá của mình đối với người khác và những tương quan, bởi vì điều này thuộc về yếu tính của một đời sống chung lâu dài khả thể vốn cần phải được thử thách và nhắm đến trên hết. Đối với những người hứa hôn thì giới hạn của tư tưởng và tưởng tượng tình dục có thể nới rộng hơn. Từ lúc bắt đầu, người sắp kết hôn buộc phải ý thức rằng tư tưởng tình dục là một phương diện bình thường của đời sống vợ chồng, mặc dù, như trong tất cả các việc khác, sự quá ham mê trong chúng có thể dẫn đến vấn đề.
Đối với người kết hôn, tư tưởng tình dục tạo nên một phần toàn vẹn của tình yêu vợ chồng. Một cách khái quát, tư tưởng tình dục có thể ngay cả làm sống động phấn chấn tương quan tình dục và có thể giữ nó khỏi trở thành máy móc hay nhàm chán. Nếu tình dục trong hôn nhân là giới hạn trong giao hợp, nó mất đi tính cách toàn vẹn, và có thể trở nên những hiểu lầm, chối bỏ tình dục, hay chỉ đơn thuần gắn bó thể lý. Về phương diện đời sống của tưởng tượng tình dục, những người kết hôn không nên áp dụng những tiêu chuẩn mẫu mực luân lý cho người độc thân. Các tư tưởng tình dục quan tâm đến tương quan vợ chồng của những người kết hôn làm giàu việc diễn tả tình yêu tương hỗ của họ đối với nhau và tăng cường sự thưởng thức. Chúng nên được khuyến khích.
Các lệch lạc tình dục là giới hạn trong những hoạt động mà trong đó đối tượng là không thích hợp, đó là, những hoạt động thay thế giao hợp giữa hai người không phải là vợ chồng. Khái quát, nếu một hoạt động nào thuộc về tự nhiên của việc chuẩn bị cho khởi phát ước muốn tình dục và kết thúc trong giao hợp vợ chồng, nó không phải lệch lạc nhưng là bình thường trong đời sống vợ chồng. Các ví dụ thông thường bao gồm những thay đổi trong vị thế giao hợp và hôn các phần của cơ thể khác hơn là miệng. Các thay đổi trong những hoạt động này do đó là bình thường, không phải là chứng cứ của rối loạn tâm lý. Dĩ nhiên những người kết hôn bắt buộc phải tỏ ra quan tâm đến cảm giác của lẫn nhau và không đòi hỏi vợ (hay chồng) những gì là có vẻ ghê gớm đối với cô ấy (anh ấy).
Đối với tu sĩ, những ai đã quyết định một cách dứt khoát dâng hiến đời sống họ cho Thiên Chúa trong các cộng đoàn tu trì, họ buộc phải áp dụng những mẫu mực luân lý chặt chẽ hơn cho đời sống tư tưởng của họ. Họ sẽ phải từ bỏ các suy tư về các tương quan vốn không thể tìm kiếm được sự viên mãn trong đời tu. Để đạt được điều này, người độc thân thánh hiến phải tập luyện phát triển một thói quen mạnh mẽ của sự trong sạch, sự thăng hoa đời sống. Điều này giả định một mức độ phát triển tâm lý cao, sự cảnh giác cao, và một nỗ lực từ bỏ chính mình.
Mặc khác, nhiều người độc thân thánh hiến thường xuyên tiếp xúc với người khác phái do công việc mục vụ tông đồ bác ái. Họ buộc phải có khả năng để có thể chạm trán với những người khác phái không phải cách cứng ngắt hoặc là như thể người ấy không phái tính, nhưng với sự thoải mái tự nhiên và dễ cảm chân thành. Điều này giả định rằng người tu sĩ phải đạt đến sự trưởng thành tính dục của họ và không sợ hãi nó. Một cách lý tưởng, người tu sĩ nên có khả năng chạm trán và coi trọng những thách đố về mối thương yêu trước khi làm bước dấn thân cuối cùng. Điều này không thể không có vài kinh nghiệm về sự hấp dẫn tình dục ít nhất là trong tư tưởng. Nhiều khó khăn của các người độc thân thánh hiến trong lãnh vực tình dục dường như là hậu quả từ sự thiếu chạm trán thẳng thừng vời tình dục, vốn lại bị ngăn chận bởi một sự sợ hãi không lành mạnh của tất cả tư tưởng tình dục và ức chế chúng một cách cứng ngắt.
Những người làm bước dấn thân cuối cùng trong đời sống độc thân tu trì buộc phải ít nhất có đủ kiến thức tâm lý và tri thức về giá trị của tình yêu tình dục để họ có khả năng làm một chọn lựa cơ bản và một chọn lựa theo giáo luật cho một bậc sống vốn đòi hỏi một sự từ bỏ hoàn toàn một tình yêu tình dục được diễn tả một cách thể lý.
WHĐ (15.04.2021)
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 97 (Tháng 11 & 12 năm 2016)
Người chưa lập gia đình có thể một cách hợp pháp suy tư về các tương quan tình ái với một người bạn có thể, cùng với một ý nghĩa của sự đánh giá cao cho những giá trị thiêng liêng gắn liền với tình dục. Các tư tưởng này không dâm dục cũng chẳng phải không đoan trang. Điều này đúng đặc biệt cho những người trẻ đang hẹn hò. Các hoạt động hẹn hò sẽ khơi dậy tư tưởng tình dục và điều ấy là bình thường. Con người ở tuổi hẹn hò phải xem xét phương diện tình dục trong sự lượng giá của mình đối với người khác và những tương quan, bởi vì điều này thuộc về yếu tính của một đời sống chung lâu dài khả thể vốn cần phải được thử thách và nhắm đến trên hết. Đối với những người hứa hôn thì giới hạn của tư tưởng và tưởng tượng tình dục có thể nới rộng hơn. Từ lúc bắt đầu, người sắp kết hôn buộc phải ý thức rằng tư tưởng tình dục là một phương diện bình thường của đời sống vợ chồng, mặc dù, như trong tất cả các việc khác, sự quá ham mê trong chúng có thể dẫn đến vấn đề.
Đối với người kết hôn, tư tưởng tình dục tạo nên một phần toàn vẹn của tình yêu vợ chồng. Một cách khái quát, tư tưởng tình dục có thể ngay cả làm sống động phấn chấn tương quan tình dục và có thể giữ nó khỏi trở thành máy móc hay nhàm chán. Nếu tình dục trong hôn nhân là giới hạn trong giao hợp, nó mất đi tính cách toàn vẹn, và có thể trở nên những hiểu lầm, chối bỏ tình dục, hay chỉ đơn thuần gắn bó thể lý. Về phương diện đời sống của tưởng tượng tình dục, những người kết hôn không nên áp dụng những tiêu chuẩn mẫu mực luân lý cho người độc thân. Các tư tưởng tình dục quan tâm đến tương quan vợ chồng của những người kết hôn làm giàu việc diễn tả tình yêu tương hỗ của họ đối với nhau và tăng cường sự thưởng thức. Chúng nên được khuyến khích.
Các lệch lạc tình dục là giới hạn trong những hoạt động mà trong đó đối tượng là không thích hợp, đó là, những hoạt động thay thế giao hợp giữa hai người không phải là vợ chồng. Khái quát, nếu một hoạt động nào thuộc về tự nhiên của việc chuẩn bị cho khởi phát ước muốn tình dục và kết thúc trong giao hợp vợ chồng, nó không phải lệch lạc nhưng là bình thường trong đời sống vợ chồng. Các ví dụ thông thường bao gồm những thay đổi trong vị thế giao hợp và hôn các phần của cơ thể khác hơn là miệng. Các thay đổi trong những hoạt động này do đó là bình thường, không phải là chứng cứ của rối loạn tâm lý. Dĩ nhiên những người kết hôn bắt buộc phải tỏ ra quan tâm đến cảm giác của lẫn nhau và không đòi hỏi vợ (hay chồng) những gì là có vẻ ghê gớm đối với cô ấy (anh ấy).
Đối với tu sĩ, những ai đã quyết định một cách dứt khoát dâng hiến đời sống họ cho Thiên Chúa trong các cộng đoàn tu trì, họ buộc phải áp dụng những mẫu mực luân lý chặt chẽ hơn cho đời sống tư tưởng của họ. Họ sẽ phải từ bỏ các suy tư về các tương quan vốn không thể tìm kiếm được sự viên mãn trong đời tu. Để đạt được điều này, người độc thân thánh hiến phải tập luyện phát triển một thói quen mạnh mẽ của sự trong sạch, sự thăng hoa đời sống. Điều này giả định một mức độ phát triển tâm lý cao, sự cảnh giác cao, và một nỗ lực từ bỏ chính mình.
Mặc khác, nhiều người độc thân thánh hiến thường xuyên tiếp xúc với người khác phái do công việc mục vụ tông đồ bác ái. Họ buộc phải có khả năng để có thể chạm trán với những người khác phái không phải cách cứng ngắt hoặc là như thể người ấy không phái tính, nhưng với sự thoải mái tự nhiên và dễ cảm chân thành. Điều này giả định rằng người tu sĩ phải đạt đến sự trưởng thành tính dục của họ và không sợ hãi nó. Một cách lý tưởng, người tu sĩ nên có khả năng chạm trán và coi trọng những thách đố về mối thương yêu trước khi làm bước dấn thân cuối cùng. Điều này không thể không có vài kinh nghiệm về sự hấp dẫn tình dục ít nhất là trong tư tưởng. Nhiều khó khăn của các người độc thân thánh hiến trong lãnh vực tình dục dường như là hậu quả từ sự thiếu chạm trán thẳng thừng vời tình dục, vốn lại bị ngăn chận bởi một sự sợ hãi không lành mạnh của tất cả tư tưởng tình dục và ức chế chúng một cách cứng ngắt.
Những người làm bước dấn thân cuối cùng trong đời sống độc thân tu trì buộc phải ít nhất có đủ kiến thức tâm lý và tri thức về giá trị của tình yêu tình dục để họ có khả năng làm một chọn lựa cơ bản và một chọn lựa theo giáo luật cho một bậc sống vốn đòi hỏi một sự từ bỏ hoàn toàn một tình yêu tình dục được diễn tả một cách thể lý.
WHĐ (15.04.2021)
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 97 (Tháng 11 & 12 năm 2016)