SUY NIỆM LỜI CHÚA CÁC NGÀY TRONG TUẦN X THƯỜNG NIÊN A

THỨ HAI TUẦN 10 TN: Th. Ép-rem, phó tế, tiến sĩ HT

Tin Mừng (Mt 5, 1-12)

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. – Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. – Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. – Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. – Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. – Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. – Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. – Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ”.

“Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri trước các con như vậy”.

Thánh Ephrem, Phó Tế, Tiến Sĩ Hội Thánh (306 – 373)

Thánh nhân sinh tại Nisibis, miền Mesopotamia vào khoảng đầu thế kỷ thứ IV. Có truyện kể rằng: hồi nhỏ, một lần Ngài lấy đá chọi con bò mẹ gần chết. Khi chủ nhân hỏi thăm có thấy con bò ở đâu Ngài đã trả lời xấc xược để chữa lỗi. Ephrem đã khóc suốt đời về sự độc ác và hèn nhát này. Sau này có lần vào đêm khuya bị lạc vào giữa đồng, một đứa chăn chiên cho Ngài trú ngụ trong lều của nó. Nhưng đứa chăn chiên này đã xấu bụng lại đang say rượu. Đêm ấy chó sói vào tàn sát đàn chiên. Để chữa mình, thằng chăn chiên đổ lỗi cho Ephrem. Trong tù Ngài nghe nhiều người than thở vì bị hàm oan. Một buồi chiều, trong giấc mơ, Ngài thấy thiên thần cho biết lần này Ngài vô tội nhưng phải khổ để đền bù vào những lỗi lầm khác. Thức dậy, Ephrem nhớ lại con bò và thú nhận với mọi người. Thân phụ Ephrem là một thày cả thờ thần Abnil. Hình như Ngài bị đuổi khỏi nhà vì có thiện cảm với các Kitô hữu. Thánh Giacôbê, Giám mục Nisibis tiếp nhận dạy dỗ và rửa tội cho Ngài hồi 10 tuổi. Để sống, Ngài làm việc ở những hồ tắm công cộng. Nhưng sau đó Ngài lại vào sa mạc sống với sự hướng dẫn của thánh Abbê ẩn tu; dệt vải để sống như thói quen của các ẩn sĩ Ai cập và Mêsôpôtamia thời đó.

Ephrem thường khóc tội mình và tội người khác. Các tập “tự thú” Ngài viết cho thấy Ngài rất mực khiêm tốn, Ngài rất ghét tính kiêu căng:

- Tính kiêu căng phá đổ ơn Chúa và thiêu hủy mọi nhân đức.

Thánh Ephrem luôn ao ước sống đời ẩn dật. Nhưng một cuộc chiến đã bùng ra giữa người Rôma và người Batư. Người Batư bách hại các Kitô hữu cách tàn bạo. Nghe tin này, Ephrem về Nisibis để giúp đỡ và khích lệ họ. Danh thơm nhân đức của Ngài lan rộng đến nỗi người ta cho việc giải phóng khỏi ách thống trị của Sapor II là bởi lỗi cầu nguyện của thánh nhân.

Được thụ phong phó tế, nhưng rồi thánh nhân đã từ chối chức linh mục vì khiêm tốn. Được Đức Giám mục Nisibis trao cho trách nhiệm rao giảng lời Chúa, Ngài dùng hết tài lợi khẩu để khêu gợi nhiệt tình nơi các linh hồn:

- “Thần dữ nói: Ta đi tìm những người khô khan là bạn hữu của ta, và ta không cần phải tìm đến mưu kế, ta chỉ cần giữ chúng trong xiềng xích mà chúng ưa thích là đủ.”

Thánh Ephrem đã gặp thánh Basiliô thành Cappadocia. Truyền thuyết cho rằng: hai vị hiểu nhau dầu ngôn ngữ bất đồng.

Chiến tranh tái phát, Nisibis rơi vào tay người Batư, thánh Ephrem trốn đến Sdessa. Nơi đây, Ngài tận tâm phục vụ bệnh nhân và người nghèo, hoạt động trí thức bằng việc viết sách và giải thích thơ phú. Thánh Ephrem đã viết các bài giảng bằng thơ, các thánh thi ca ngợi vinh quang Chúa Kitô và Đức Trinh Nữ Maria. Người luôn được gọi là “cây đàn của Thánh Linh” là một trong những người rao truyền việc VÔ NHIỄM THAI.

- Lạy Chúa, chỉ có Chúa và Mẹ Chúa là tuyệt mỹ. Nơi Mẹ Chúa không vương một tì tích nào.

Một năm trước khi thánh nhân qua đời, Edessa bị một cơn đói. Ngài kêu gọi lòng quảng đại của mọi người và người ta đã rộng tay đóng góp vào công cuộc phát chẩn của thánh. Cơn đói chấm dứt, thánh nhân trở lại chòi của mình. Lên cơn sốt, Ngài nghĩ tới lúc chết:

- Đừng liệm xác tôi bằng đồ quí giá, cũng đừng dựng đài tưởng niệm. Hãy đối xử với tôi như một người lữ khách vì thực sự tôi là một lữ khách xa lạ trên mặt đất này thôi.

Ngài qua đời có lẽ vào tháng 6 năm 373. Thánh Gregoriô miền Nyssa viết về thánh Ephrem:

- Vinh quang đời sống và giáo thuyết của thánh nhân chiếu giãi khắp hoàn cầu.

Năm 1820, Đức Bênêđictô XI tôn phong Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.

HẠNH PHÚC CÓ THẬT!

“Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao.” (Mt 5,12)

Suy niệm: Tác giả tập truyện thơ Cung Oán Ngâm Khúc cho rằng tạo hoá chơi khăm khi tranh giành hạnh phúc của con người và đẩy họ vào thảm cảnh bi đát: “Quyền phúc hoạ trời tranh mất cả, chút tiện nghi chẳng trả phần ai!” Liệu Thiên Chúa chúng ta thờ – hoặc chúng ta nghĩ như thế – có hành xử như tạo hoá của tác giả kia hay không? Hạnh phúc Chúa hứa ban là hạnh phúc kiểu gì mà đến từ nghèo khó, sầu khổ, bách hại, vu khống đủ điều…? Câu trả lời có giá trị chỉ có thể đến từ Chúa Giê-su và những ai đã kinh qua nghèo khó, sầu khổ và bị bách hại như chính Ngài mà thôi. Nhờ Ngài mà chúng ta có thể “vui mừng hớn hở” vì “phần thưởng lớn lao” dành cho chúng ta trên trời là có thật.

Mời Bạn: Có hạnh phúc nào đến với ta mà ta không phải trả giá bằng hy sinh, cố gắng hay chưa? Không thể có hạnh phúc từ trên trời rơi xuống, cũng không thể có hạnh phúc trên đau khổ của người khác. Gia đình hạnh phúc khi vợ chồng, cha mẹ con cái biết hy sinh cho nhau, để đem lại cho nhau những điều tốt đẹp. Tôi được hạnh phúc khi dám chấp nhận thiệt thòi về phía mình để cống hiến vì sự lợi ích cao nhất cho tha nhân, nhất là cho những người bé mọn, nghèo hèn, bị bỏ rơi.

Sống Lời Chúa: Hãy học với thánh Phan-xi-cô Khó Khăn, người đã thấm nhuần tinh thần Tin Mừng này: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.”

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin giúp con kiên vững thực thi lời Chúa dạy, là biết trở nên nghèo khó, hiền lành, nhu mì để chính con được hạnh phúc và làm cho người khác cũng được hạnh phúc nữa.

THỨ BA TUẦN 10 TN

Tin Mừng (Mt 5, 13-16)

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”.

PHẢN CHIẾU ÁNH SÁNG

“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” (Mt 5,14)

Suy niệm: Chuyện kể rằng sau một thời gian học hỏi tu luyện, người môn đệ hỏi sư phụ: “Thưa Thầy, đâu là sự khác nhau giữa kiến thức và giác ngộ?” Thầy trả lời: “Khi con có kiến thức, con dùng một bó đuốc để soi đường. Còn khi con giác ngộ, chính con sẽ trở thành bó đuốc.” Trở thành đuốc sáng cho trần gian, quả không phải là chuyện dễ! Vì chỉ có Thiên Chúa mới là ánh sáng (1Ga 1,5) và chỉ có Đức Giê-su mới dám nhận mình là ánh sáng: “Tôi là ánh sáng của thế gian” (Ga 8,12). Thế mà hôm nay, Chúa đã đặt các môn đệ Ngài là ánh sáng:“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” Đúng vậy. Nhưng chúng ta chỉ là ánh sáng khi chúng ta phản chiếu ánh sáng của Chúa, nghĩa là chúng ta để cho ánh sáng của Người xuyên qua và toả sáng trong cuộc đời chúng ta, để thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp chúng ta làm, mà tôn vinh Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời (c.16).

Mời Bạn: Truyền giáo chính là bản chất của người Ki-tô hữu, như muối không thể không mặn, ánh sáng không thể không chiếu sáng. Bạn đã ý thức và thực hành sứ mệnh quan trọng ấy như thế nào rồi ?

Chia sẻ: Nhiều Ki-tô hữu bị biến chất khi dấn thân vào đời. Có cách nào hoà mình mà không đánh mất chính mình?

Sống Lời Chúa: Là ánh sáng, xin bạn toả sáng bằng: – sống bác ái (thăm viếng người già yếu bệnh tật, giúp đỡ người nghèo…); – nói Lời Chúa, nhất là cho các bạn chưa biết Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con biết gìn giữ ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa suốt cả cuộc đời.


THỨ TƯ TUẦN 10 TN: Th. Ba-na-ba, tông đồ

Tin Mừng (Mt 10, 7-13)

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng rằng: Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ: Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. “Các con chớ mang vàng, bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc: vì thợ thì đáng được nuôi ăn. Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở nơi đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. “Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: “Bình an cho nhà này”. Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì sự bình an của các con sẽ trở về với các con”.

Thánh Barnaba tông đồ

Thánh Barnaba nắm giữ một chức vụ nổi bật trong những chương đầu của sách Công Vụ Tông Đồ, không phải cho mình mà nhằm giới thiệu thánh Phaolô, anh hùng trong cuốn sách. Ngài là một người Do thái được sinh tại Chypre và là một phần tử trong Giáo hội sơ khai ở Giêrusalem. Chính ở địa vị này mà khoảng năm 39 tân tòng Saolê được đón nhận vào cộng đoàn các tông đồ (Cv 9,27). Bốn năm sau, Ngài kêu gọi Saolê tham gia công tác hướng dẫn cộng đoàn Kitô giáo mới được thiết lập ở Antiôkia (Cv 11,19-26). Thành phố này rất quan trọng (chỉ kém Rôma) và đã trở nên trung tâm Kitô giáo của lương dân. Một lần nữa, cùng với Saolê, Ngài được trao phó cho nhiệm vụ mang tiền cứu trợ gởi về cho Giáo hội Giêrusalem (Cv 27-30). Nơi đây hai người gặp được Gioan (Marcô) là bà con của Barnaba (Cv 12,24); ba người họp thành đoàn truyền giáo, lên đường khoảng năm 45 (Cv 13 -14). Dầu Chypre là sinh quán của Barnaba, nhưng chính Saolê dưới tên mới là Phaolô dẫn đầu cuộc truyền bá Phúc âm. Phaolô và đoàn tùy tùng lên đường tới lục địa Tiểu Á. Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba được coi là thần Jupiter và Phaolô là Hermes. Đây là chứng cớ hùng hồn về vai trò hỗ tương của hai ông. Ba năm sau Phaolô trở về và được cộng đồng Giêrusalem phê chuẩn về đường lối Ngài theo trong chuyến hành trình (Cv 15,1-35).

Dự định hành trình truyền giáo thứ hai có sự tranh chấp về việc kết nạp Marcô (Cv 15,35-41). Phaolô chọn các bạn đồng hành khác và Barnaba trở về Chypre. Việc giới thiệu Phaolô đã được hoàn thành và tên Ngài không còn được nhắc đến trong sách Công vụ nữa. Trong việc trao đổi thư từ của Phaolô với Giáo hội Côrintô cho thấy khoảng năm 56 thánh Barnaba vẫn còn sống (1Cr 9,5). Sáu năm sau, Phaolô xin Marcô đến gặp mình ở Roma (2Tm 4). Sự kiện này cho phép chúng ta nghĩ rằng thánh Barnaba đã qua đời.

Một truyền thống sau này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba tới Alexandria, Roma, và Milan. Tại Milan, Ngài là Giám mục tiên khởi. Một truyền thống đáng tin hơn cho biết Ngài chết vì ném đá ở Salamis, sinh quán của Ngài. Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thư Phúc âm thánh Barnaba và của một tác phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh Barnana. Nhưng những tài liệu này không cho biết nhiều hơn những điều đã biết được từ sách Công Vụ Tông Đồ. Cuốn gọi là thơ thánh Barnaba mà nhiều giáo phụ chép vào thư mục thánh kinh, nay người ta biết được là tác phẩm của một người Do thái theo Kitô giáo ở Alexandria.

Người ta nói rằng mộ Ngài được tìm thấy năm 448. Trên ngực Ngài còn có một cuốn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Barnaba đã chép tay.

Thánh Barnaba là mẫu gương của lòng nhiệt thành trong việc rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa. Chúng ta hãy xin thánh nhân cầu thay nguyện giúp, để mỗi chúng ta cũng luôn nhiệt tâm trước những đòi hỏi cấp bách của Tin Mừng.

MIỄN SAO TIN MỪNG ĐƯỢC LOAN BÁO

“Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10,8)

Suy niệm: Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết thánh Ba-na-ba được đầy Thánh Thần, đã hăng hái rời Giê-ru-sa-lem đi đến An-ti-ô-khi-a rao giảng Tin Mừng và mạnh dạn tìm gặp Phao-lô, (Cv 11,25-26). Thực vậy, chẳng mấy ai dám làm việc với Phao-lô, vì vẫn nghi kỵ ông, người đã từng bách hại các tín hữu dù nay đã trở lại. Thế nhưng Ba-na-ba đã không ngại tiếp xúc và còn mời Phao-lô tham gia vào sứ mạng truyền giáo. Đó là việc làm xuất phát từ đức tin. Ông tin tưởng vào Chúa Thánh Thần, Ngài sai ông đi đâu và cộng tác với ai, ông vâng theo. Chúa Giê-su đã nhắc nhở người Tông Đồ không mang theo gì cả, chỉ biết mình đã được cho không thế nào, thì bây giờ cũng cho không như vậy. Ba-na-ba theo lời Chúa dạy, ông không mang theo gì cả, kể cả thành kiến từng có đối với Phao-lô. Ông chỉ nhắm đến sứ mạng truyền giáo theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, sẵn sàng cộng tác với mọi người cho sứ mạng này.

Mời Bạn: Bạn đang làm việc với ai để truyền giáo? Bạn lựa chọn một số người và loại trừ một số khác sao? Chúa đang mời bạn cộng tác với mọi người để Tin Mừng được loan báo, phải không? Bạn cố gắng bỏ xuống những thành kiến về người khác và mang lấy Thánh Thần để cộng tác với anh chị em cách tích cực.

Sống Lời Chúa: Cầu nguyện cho những người đang cùng truyền giáo với bạn trong mọi công việc.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Thánh Thần, xin biến đổi tâm trí chúng con, cho chúng con quảng đại đón nhận mọi người, miễn sao Tin Mừng được loan báo.

THỨ NĂM TUẦN 10 TN

Tin Mừng (Mt 5, 20-26)

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu. “Các con đã nghe dạy người xưa rằng: “Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án”. Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toàán luận phạt. Ai bảo anh em là “ngốc”, thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là “khùng”, thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!”

THEO CHÚA GIỮ LUẬT CHÚA

“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa.” (Mt 5,22)

Suy niệm: “Bài Giảng Trên Núi” hay cũng là kim chỉ nam cho lối sống người Ki-tô hữu đặt ra cho các tín hữu những chuẩn mực xem ra thật khắt khe so với quan niệm thông thường người đời: không đợi đến lúc có hành vi cố sát mới bị ra tòa mà chỉ mới giận ghét anh em mình, mắng họ ‘đồ ngốc’, chửi họ ‘quân phản đạo’ thì kể là có tội rồi. Bởi vì đối với Chúa Giê-su, mỗi con người cho dù họ là gì đi nữa, họ đều là con của Thiên Chúa, họ có một nhân phẩm cao quí mà người khác phải kính trọng. Chúa Giê-su là gương mẫu cho ta về sự yêu thương và tôn trọng con người, nhất là những người bé nhỏ, tội lỗi, nghèo khổ. Ngài chết để phục hồi cho con người phẩm giá làm con cái Chúa. Ngài đổ tràn Thánh Thần tình yêu vào lòng chúng ta để chúng ta yêu thương mọi người như Chúa đã yêu.

Mời Bạn: Người đời chạy theo những lối sống bất chấp giới răn của Chúa. Họ đề cao quyền con người nhưng lại chủ trương giết hại thai nhi trong lòng mẹ. Nếu người đời coi khinh Thiên Chúa, gạt bỏ Ngài ra khỏi đời sống của họ, thì Ki-tô hữu yêu mến tôn thờ Chúa và trung thành tuân giữ giới răn Chúa, lấy đó làm niềm vui và hạnh phúc cho tâm hồn mình.

Sống Lời Chúa: Tôi siêng năng đọc, suy gẫm Lời Chúa và trung thành tuân giữ Lời Ngài dù có phải đi ngược với trào lưu của thế gian.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, vì yêu thương chúng con, Chúa đã dạy chúng con tuân giữ các giới răn của Chúa. Xin cho chúng con an tâm bước đi theo Chúa, tin tưởng rằng Chúa là ánh sáng chân lý soi đường cho chúng con.

THỨ SÁU TUẦN 10 TN: Th. An-tôn Pa-đô-va, linh mục, tiến sĩ HT

Tin Mừng (Mt 5, 27-32)

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đã nghe dạy người xưa rằng: “Chớ ngoại tình”. Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi. Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thìhãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. “Có lời dạy rằng: “Ai bỏ vợ mình, hãy trao cho vợ một giấy ly dị”. Phần Thầy, Thầy bảo các con: bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa”.

Thánh Antôn Padua, Linh mục-Tiến sĩ Hội thánh

Lòng tôn sùng rộng rãi và mạnh mẽ đối với thánh Antôn Padua thật lạ lùng so với những sự kiện đời Ngài. Ngài sinh năm 1195 có lẽ gần Lisbonne, với tên gọi là Fernandô. Cha Ngài là hiệp sĩ và viên chức tại triều đình hoàng đế Alphongsô thứ II, vua nước Bồ Đào Nha. Fernadô được gởi đi học trường nhà thờ chánh tòa tại Lisbonne. Nhưng vào tuổi 15, Ngài gia nhập dòng thánh Augustinô.

Sau hai năm tại nhà dòng, Ngài xin được chuyển về Coimbra vì bạn bè đến thăm quá đông. Tu viện Coimbra có một trường dạy Thánh kinh rất danh tiếng. Tám năm trời Fernadô nỗ lực học hỏi và đã trở thành học giả sâu sắc về Thần học và Kinh thánh.

1. Biến cố thay đổi

Ngày kia với nhiệm vụ tiếp khách, Ngài săn sóc cho 5 tu sĩ Phanxicô đang trên đường tới Morocco. Về sau họ bị tàn sát dã man và thi hài họ được đưa về Coimbra để tổ chức quốc táng. Fernadô mong ước hiến đời mình cho cánh đồng truyền giáo xa xăm. Nôn nóng với ước vọng mới, Fernadô phải tiến một bước bất thường đầy đau khổ là rời bỏ dòng Augustinô để nhập dòng Phanxicô. Nhà dòng đặt tên Ngài là Antôn và chấp thuận cho Ngài tới Moroccô. Nhưng vinh dự tử đạo không được dành riêng cho Ngài. Ngài ngã bệnh và phải trở về nhà, Trên đường về, con tàu bị bão thổi bạt tới Messina ở Sicyly. Thế là An tôn nhập đoàn với anh em Phanxicô nước Ý. Có lẽ thánh nhân có mặt trong cuộc họp ở Assisi. Năm 1221, và gặp thánh Phanxicô ở đây. Ít lâu sau Ngài được gởi tới viện tế bần ở Forli gần Emilia để làm những công việc hèn hạ.

2. Biến cố tiếp theo

Dầu vậy một biến cố bất ngờ khiến người ta khám phá ra khả năng đặc biệt của thánh nhân. Trong một lễ nghi phong chức ở Forli nhà giảng thuyết đặc biệt vắng mặt. Không ai dám thay thế. Cha giám tỉnh truyền cho Antôn lên tòa giảng. Antôn làm cho khán giả kinh ngạc. Người ta thấy ngay trước được rằng: Ngài là một nhà giảng thuyết bậc nhất. Ngài được chỉ định làm nhà giảng thuyết trong cả Atalia. Đây là một thời mà Giáo hội cần đến những nhà giảng thuyết hơn bao giờ hết để chống lại các lạc thuyết. Kể từ đó nhà tế bần Forli không còn gặp lại Antôn nữa. Antôn du hành không ngừng bước từ miền nam nước Ý tới miên Bắc nước Pháp, hiến trọn thời gian và năng lực cho việc giảng dạy. Sự hưởng ứng của dân chúng đã khích lệ Ngài nhiều, các nhà thờ không đủ chỗ cho người đến nghe. Người ta phải làm bục cho Ngài đứng ngoài cửa. Nhưng rồi đường phố và quảng trường lại chật hẹp quá và người ta phải mang bục ra khỏi thành phố tới những cánh đồng hay sườn đồi, nơi có thể dung nạp những 20, 30, 40 ngàn người đến nghe Ngài. Nghe tin Ngài đến đâu, thì nơi đó tiệm buôn đóng cửa, chợ hoãn phiên họp, tòa ngưng xử án. Suốt đêm dân chúng từ khắp nơi đốt đuốc tụ về. Dường như bất cứ ai một lần chịu ảnh hưởng của thánh Antôn thì không có gì chống lại được sự lôi cuốn bởi các bài giảng của Ngài.

Ngài thường mạnh mẽ chống lại sự yếu đuối của hàng tu sĩ qua những tội nổi bật trong xã hội đương thời như: tính tham lam, nếp sống xa hoa, sự độc đoán của họ. Đây là một giai thoại điển hình: khi Ngài được mời để giảng ở hội đồng họp tại Bourges, dưới sự chủ tọa của tổng giám mục Simon de Sully. Với những lời mở đầu “Tibi loquor cornute” (Tôi xin thưa cùng Ngài đang mang mũ giám mục trên đầu), thánh nhân tố giác vị giám mục mới tới, làm mọi thính giả phải kinh ngạc.

Cũng tại Bourges, người ta đã ghi lại một phép lạ lừng danh về một con lừa thờ lạy bí tích cực trọng. Với một người Do thái không tin phép Bí tích Mình Thánh. Thánh nhân nói:

- Nếu con lừa ông cưỡi mà quỳ xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình dưới hình bánh thì ông có tin không ?

Người Do thái nhận lời thách thức. Hai ngày ông ta không cho lừa ăn rồi dẫn tới chỗ họp chợ, giữa một bên là lúa mạch và bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi qua, con vật quên đói quay sang thờ lạy Chúa.

Mùa chay cuối cùng thánh Antôn giảng ở Padua. Và người ta còn nhớ mãi sự nhiệt tình mà thánh nhân đã khơi dậy. Dân địa phương đã không thể nào tìm ra thức ăn lẫn chỗ ở cho đoàn người đông đảo kéo tới. Nhưng sau mùa chay này, thánh nhân đã kiệt sức. Ngài xin các bạn đồng hành đưa về nhà thờ Đức Maria ở Padua để khỏi làm phiền cho chủ nhà trọ. Không nói được nữa, Ngài dừng chân ở nhà dòng Đức Mẹ người nghèo ở Arcella. Tại đây, người ta đặt Ngài ngồi dậy và giúp Ngài thở. Ngài bắt đầu hát thánh thi tạ ơn và qua đời ngày 13 tháng 6 năm 1231.

Thánh Antôn Padua đã hiến trọn thời gian và năng lực cho việc giảng dạy về tình yêu Chúa. Ước gì mỗi chúng ta cũng biết noi gương thánh nhân, can đảm hiến thân cho tha nhân, cho Tin Mừng nước Cha.

ĐÒI HỎI ĐỂ KIỆN TOÀN LỀ LUẬT

“Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục.” (Mt 5,29)

Suy niệm: Chúa Giê-su nhiều lần chỉ trích người Do Thái giữ luật dựa trên mặt chữ với đủ thứ tiểu tiết chi li và hình thức trong khi những đòi hỏi cốt yếu của Lề Luật thì lại bỏ qua. Nói như thế không phải là Chúa Giê-su “bãi bỏ Luật Mô-sê” (Mt 5,17); trái lại Ngài đòi hỏi phải kiện toàn Lề Luật bằng cách có một thái độ quyết liệt, dứt khoát đối với tất cả những tư tưởng đen tối, những ước muon bất chính, và thậm chí phải “chặt tay, móc mắt” quăng đi nếu chúng “làm cớ cho anh sa ngã”. Khi tuyên bố những lời này, Chúa Giê-su có ý nhấn mạnh ý thức sâu xa và nhạy bén trước tội lỗi và đến tinh thần giữ luật cách triệt để chứ không phải là nghĩa đen của ngôn từ. Đây chính là sự “kiện toàn lề luật” mà Chúa nói đến để có thể trở nên hoàn thiện “như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).

Mời Bạn: Con người trong xã hội hôm nay đang mau chóng đánh mất cảm thức về tội lỗi. Người ta hăm hở tìm kiếm sự “hoàn hảo” về tri thức, của cải, sắc đẹp… hơn là “trở nên hoàn thiện”trước mặt Thiên Chúa. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở bạn biết quý trọng vẻ đẹp của linh hồn và dốc sức để bảo vệ và trau dồi nó dù có phải trả giá lớn lao thế nào đi nữa.

Sống Lời Chúa: Quyết tâm chống lại cơn cám dỗ cách quyết liệt dứt khoát ngay khi nó vừa mới chớm phát sinh.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa và lề luật của Ngài, cho con biết quyết lòng từ bỏ những gì không đẹp ý Chúa, để con trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Amen.

THỨ BẢY TUẦN 10 TN

Tin Mừng (Mt 5, 33-37)

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con lại còn nghe dạy người xưa rằng: “Ðừng bội thề, nhưng hãy giữ lời ngươi đã thề với Chúa”. Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ðừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất màthề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được. Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra”.

KHÔNG CẦN THỀ!

“Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ.”(Mt 5,37)

Suy niệm: Thề là đưa Thiên Chúa ra để làm chứng cho điều mình nói là đúng. Nhưng nếu người thề không giữ điều mình thề hay thề gian thề dối, thì chính họ làm cho Danh Thánh Thiên Chúa bị xúc phạm và phủ nhận tiếng nói của lương tâm mình. Chúa Giê-su dạy chúng ta bài học về “nói sự thật” mà thánh Gia-cô-bê sau này còn nhắc lại: “Hễ ‘có’ thì phải nói có, ‘không’ thì phải nói ‘không’, như thế, anh em sẽ không bị xét xử” (Gc 5,12). Nếu tôi sống ngay chính trước mặt Thiên Chúa và trước lương tâm thì tôi không cần phải thề thốt gì cả. Lời nói của tôi là đúng, là thật, là chắc chắn thì đã đáng được mọi người tin cậy. Ngược lại, nếu thêm thắt điều gì, thì lời nói bấy giờ là lời bị thúc đẩy bởi ác quỷ.

Mời Bạn: Trong xã hội nhiều khi sự dối trá lấn lướt sự thật. Những lời thề thốt có khi làm người ta lầm lạc, đặt niềm tin nơi những sự dối trá. Nguy hiểm hơn, có những lời nói “có cánh” làm người ta chấp nhận “sự dối trá ngọt ngào”. Nhưng tự nhiên ai cũng thích sự chân thật. Hơn nữa, chúng ta có Đức Giê-su là chính Sự Thật, Người dạy về sự thật. Và sự thật sẽ giải phóng chúng ta (x. Ga 8,32). Cuối cùng, sự thật sẽ được phơi bày và người nói sự thật sẽ được chân lý bênh vực.

Sống Lời Chúa: Luôn can đảm nói sự thật, sống theo sự thật vì Chúa chúng ta thờ là Sự Thật.

Cầu nguyện: Lạy Chúa là Đấng chân thật, và Chúa thấu suốt tâm can con người. Chúng con đang sống trong một môi trường thiếu sự thật và dư sự dối trá. Xin ban cho chúng con lòng can đảm dám nói thật và bênh vực sự thật.





Share:

Bài viết mới

Bài xem nhiều

LỜI CHÚA HẰNG NGÀY

ĐỌC KINH THÁNH

Bạn nên xem

Tổng số lượt xem

Quốc gia truy cập

Flag Counter