Ơn gọi làm tông đồ
Hôm nay khởi đầu thư thánh Phaolô gởi tín hữu Roma. Ta biết rằng Phaolô viết thư này từ Corintô, khoảng mùa đông 57-58, trong khi sắp trẩy đi Giêrusalem để mang về những của bố thí cho kẻ nghèo. Đồng thời ngài đang nghĩ đến
những cuộc hành trình sắp đến, có ý định đến Roma và Tây Ban Nha. Tại Roma, trước khi Phêrô và Phaolô đến, đã có cộng đoàn kitô, ta không biết được thành hình như thế nào và Phaolô ước ao hết sức được tiếp xúc với các kitô hữu này mà ngài chưa hề biết. Lối mở đầu long trọng cho thấy tầm quan trọng mà vị Tông Đồ dành cho cộng đoàn này. Phaolô không để ý chải chuốt văn phong của ngài, nhưng đoạn mở đầu thư này là một ngoại lệ, vì ngài muốn nói nhiều điều quan trọng. Ngài hãnh diện vì được làm tông đồ: ‘Tôi là Phaolô, tôi tớ của Đức Giêsu Kitô, được gọi làm tông đồ và dành riêng để loan báo tin mừng của Thiên Chúa’. Thiên Chúa cũng chọn chúng ta, những người kitô, chúng ta được gọi để loan báo tin mừng của Thiên Chúa, có lẽ với cách thức khiêm tốn hơn vị Tông đồ dân ngoại. Chúng ta nên tự hào cách thánh thiện về ơn gọi này Thiên Chúa dành cho ta.
Phaolô khai triển tư tưởng của ngài. Tâm điểm của ơn gọi này không phải là chính ông, nhưng là Đức Kitô, mà ông trình bày cả hai bình diện: Đức Kitô- con người và Đức Kitô- Thiên Chúa: ‘Xét như một người phàm, Đức Giêsu xuất thân từ dòng dõi Đavít’. Và rồi ta thấy cả mầu nhiệm của Đức Kitô, thập giá của Ngài; tuy nhiên: ‘Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng’. Đức Giêsu Kitô, tâm điểm của tất cả tư tưởng của Phaolô. Bức thư cho thấy rõ đức tin là nền tảng cả cuộc sống của Phaolô, cả sứ vụ tông đồ của ông.
Ông kêu gọi mọi người vâng phục đức tin, dựa vào Đức Kitô, vì chỉ dựa vào Đức Kitô chứ không phải trên chính mình, trên sứ vụ riêng của ta, công trạng của ta, nhưng trên tình yêu của Đức Kitô, tình yêu của Thiên Chúa đến với ta qua Đức Kitô.
Với những tâm tình đó, Phaolô ngỏ lời cho ‘Tất cả anh em ở Roma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh’. Là những lối diễn tả cho ta thấy được ý nghĩa của niềm vui, dù ở Roma hay ở nơi nào khác, bởi lẽ đối với các kitô hữu, Roma là ‘thành đô của chúng ta’. Ngay đầu lễ, phụng vụ thường nhắc lại lời chào của Phaolô: Ân sủng và bình an của Đức Kitô ở cùng anh chị em. Đó là lời chào kitô, vừa gói trọn vừa biến đổi lời chào của người hy lạp và do thái. Người do thái chào: ‘Bình an’ và Phaolô đã nói ‘bình an’, bình an đến từ Chúa Cha và từ Đức Giêsu Kitô. Người hy lạp cầu chúc cho nhau niềm vui, và Phaolô cầu chúc ân sủng. Cũng giống nhau nhưng có ý nghĩa sâu xa hơn.
Chúng ta hãy đón nhận lời cầu chúc của Phaolô và cùng vui sướng hơn bao giờ hết vì ơn gọi của chúng ta.
Xin phép, Xin lỗi, Cám ơn
Họ nghe những lời rao giảng của Giona mà hoán cải.
Ta phải hoán cải để thực hành tốt. Ta có thể là công giáo, hồi giáo, vô thần, ấn giáo hoặc một tôn giáo nào khác, nhưng ta không thể sống một cuộc sống ích kỷ, chỉ lo tìm kiếm tiền bạc, thỏa mãn nhục dục và quyền lực. Biết bao người khuyên chúng ta bước đi trên con đường với những nguyên tắc tốt, nếu ta không muốn tin vào một tôn giáo, thì hãy tin vào chỉ một người nói những điều đúng đắn với tình yêu và sự đơn sơ. Đức Thánh Cha Phanxicô đã được nhiều người biết đến như một con người can đảm, khiêm tốn, đơn sơ, thanh sạch, không tìm khẳng định chính mình, không có ý cải đạo người không có đức tin. Ngài đề cao những giá trị căn bản cách đặc biệt của gia đình, là những giá trị không phải chỉ riêng cho đạo công giáo. Dưới mắt của mọi người sự sụp đổ của các đôi hôn nhân gây vấ đề và đau khổ cho biết bao nhiêu người, nhất là cho con cái, cho trẻ thơ mà ta yêu thương, mà Thiên Chúa gởi đến cho ta, những trẻ thơ mà ta bồng ẳm trong tay, nuối nấng dạy dỗ. Vâng, chúng ta yêu chúng, nhưng đến mức độ nào? Có hơn chính sự sống của ta không? Không, vì nếu như thế ta đã chẳng từ chối đối thoại vợ chồng với nhau vì sự thiện hảo của con cái, ta đã chẳng làm gương xấu cho con cái vì việc vợ chồng tranh cải nhau, đã phải làm tất cả để mang lại sự bình yên cho gia đình hiệp nhất.Đức Thánh Cha chỉ cho ta ba từ thật lạ lùng, hết sức đơn sơ nhưng thường ta hay quên: Xin phép, Xin lỗi, Cám ơn.
Xin phép. Ta phải tôn trọng sự riêng tư của ngườ khác, không nhòm ngó, không ghé mắt nhìn tin nhắn trên điệm thoại di động của họ, tin tưởng họ.
Xin lỗi. trong một ngày biết bao lần ta làm điều sai, biết bao lỗi lớn nhỏ với những người mà ta yêu quý. Ta có biết xin lỗi không? Ta có biết nhận những lời xin lỗi không? Đừng bao giờ lên giường ngủ mà chưa làm hòa với người khác.
Cám ơn. Tất cả đều nhờ và do người khác. Người vợ sắp xếp giường, chuẩn bị bữa ăn, chỉ cần một nụ cười, một cái vuốt yêu, một lời cám ơn. Người chồng mỗi ngày phải làm việc, bỏ hết mọi vấn đề khi ra khỏi nhà, chỉ cần một tiếng cám ơn.
Chỉ cần một chút, nhưng cái một chút đó thường chúng ta lại khó làm, và do đó mà những tương quan không chỉ giữa vợ chồng, phai nhạt dần.
Thứ Ba
Được cứu nhờ lòng tin
Thánh Phaolô, trong đoạn mở đầu thư Roma, cho ta thấy thái độ sẵn sàng của người được sai đi, người có sứ vụ truyền giáo: ‘Thưa anh em, tôi không hổ thẹn vì tin mừng’. Đó là lời đầu tiên của ngài. Quả thật, tin mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người do thái, sau là người hy lạp. Phaolô hãnh diện vì tin mừng: đó là điều kiện đầu tiên để ngài có thể thi hành sứ vụ của mình. Nếu ngài hổ thẹn vì tin mừng, ngài không thể loan báo, có lẽ ngài sẽ giữ trong lòng chứ không đi đến với kẻ khác để kêu gọi họ tin vào. Lý do hổ thẹn, trong một bức thư khác Phaolô nói rằng, khi nói về thập giá, đó là điều điên rồ đối với người hy lạp và là kỳ chướng (cớ vấp phạm) đối với người do thái. Là điên rồ khi nói rằng Đức Kitô đã thất bại khi để mình bị đóng đinh và là một cớ vấp phạm cho người do thái, những người mong chờ các phép lạ, vì chẳng thấy phép lạ nào xảy ra giây phút Đức Giêsu chết. Nhưng Phaolô biết rằng tin mừng là quyền năng của Thiên Chúa, rằng Đức Kitô đã chiến thắng.
Thật kinh ngạc khi đọc thấy tin mừng là quyền năng của Thiên Chúa để cứu những ai tin. Làm thế nào một lời nói lại có quyền năng? Tin mừng là một lời đặc biệt, chứa đựng tất cả quyền năng của Thiên Chúa. Ta có tin thật như vậy không? Nhiều lần ta đón nhận tin mừng như một lời mệnh lệnh để chúng ta cố gắng phục vụ Ngài. ‘Hãy làm việc này’. Chứ không phải như là những lời ban cho chúng ta sức mạnh.
Phaolô nói rằng tin mừng không phải là một lời như thế, chỉ biết yêu sách. Lời tin mừng có sức mạnh. Ta đón nhận như một sức mạnh, chứ không như một mệnh lệnh, bởi vì tin mừng truyền tải đức tin và toàn bộ đời sống của ta dựa trên đức tin; chúng ta kín múc sức mạnh từ đức tin chứ không từ sự tin tưởng nơi chính mình. Nhờ đức tin chúng ta mở rộng cho quyền năng của Thiên Chúa và chúng ta xây dựng cuộc đời chúng ta trên ân sủng, trên hồng ân nhưng không Ngài ban tặng. Tiếp sau mới đến những công việc của chúng ta làm, được linh hoạt nhờ ân sủng ban cho.
Trong đoạn thư ta đọc hôm nay, Phaolô loan báo ơn cứu độ nhờ đức tin: ‘Vì trong tin mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mạc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống’.
Nhân loại đang ở trong tình trạng lo âu, khốn khổ và nô lệ: do tội lỗi và đáng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, không có lối thoát. Do đó Thiên Chúa đã thiết lập phương cách cứu độ: không phải do công việc của con người, vì tất cả đã bị hư hoại do tội, nhưng là nhờ niềm tin vào Đức Kitô. Sứ vụ của Phaolô là rao giảng đức tin và ơn cứu độ do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa.
Trong tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng loan báo: cần phải thay đổi não trạng, phải hối cải. Ngài mời gọi các biệt phái vượt qua tôn giáo chuyên lo giữ sự thanh sạch bên ngoài để đến với một tôn giáo của lòng nhân hậu, khiêm nhu, và của sự hiệp thông. Người biệt phái mời Đức Giêsu về nhà mình, lên tiếng kết án Ngài ngay lập tức, vì đã không rửa tay trước khi dùng bữa. Đối với các biệt phái, đây là những nghi thức thanh tẩy quan trọng, vì không phải chỉ như những cử chỉ giữ vệ sinh, mà còn là một bảo đảm sự thanh sạch trước mặt Thiên Chúa nữa. Đức Giêsu chống lại quan niệm tôn giáo ấy và tuyên bố rằng những điều ấy là cần làm, nhưng sự thanh sạch nội tâm mới đáng kể: ‘Này nhóm biệt phái các ngươi, bên ngoài chén dĩa thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong các ngươi thì đầy những chuyện cướp bóc gian tà’. Lau rửa bên ngoài thì dễ dàng, nhưng thanh tẩy tâm hồn, con người không thể làm được. Cần phải đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, nghĩa là loại trừ cái kiêu căng tự cứu mình nhờ việc làm và khiêm tốn trước mặt Ngài, đồng thời yêu thương nhân hậu với người khác, vì Thiên Chúa không ban ân sủng cho kẻ không sẵn sàng phục vụ kẻ khác.
‘Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người’. Khi tâm hồn con người (bên trong) được canh tân nhờ sám hối, con người sẽ trở nên tốt, quảng đại, vượt qua khỏi một tôn giáo ‘tách biệt’ để đến một tôn giáo của ân huệ, của hiệp thông.
Thứ Tư
Xét đoán anh em
Phần thứ nhất thư Roma, Phaolô minh chứng cho thấy rằng mọi người đều cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong chương hai, Phaolô ngỏ lời với những người tưởng mình là công chính, không cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, bởi vì họ đã sống đúng như điều họ phải sống. Phaolô nói rằng: ‘Dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán, thì bạn cũng không thể bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình’.
Là ảo tưởng chung: người ta tưởng mình công chính khi lên tiếng xét đoán kẻ khác. Thường tình, nếu thấy ai sai lỗi, ta hay nghĩ rằng giả như ở vào địa vị của họ, mình sẽ làm tốt hơn nhiều, ngay cả những điều mà chúng ta không có khả năng. Chúng ta không nghĩ rằng là người lên tiếng chỉ trích, phê phán, chúng ta có khi còn tệ hại hơn đối tượng mà chúng ta xét đoán nữa. Trên bình diện đạo đức và tinh thần cũng thế. Nhìn thấy một ai đó làm một việc không đúng, chúng ta nghĩ trong lòng, nếu mà là tôi, trong hoàn cảnh đó tôi sẽ làm điều đúng đắn.
Phaolô nói: ‘Hỡi bạn, người xét đoán những kẻ làm những điều đó, trong khi chính mình cũng làm như vậy, bạn tưởng mình sẽ khỏi bị Thiên Chúa xét xử sao? Chúng ta tất cả cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa: là con đường duy nhất mang lại ơn cứu độ. Cần phải đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, ban tặng cho tất cả mọi người. Nguời do thái cũng như hy lạp, kitô hữu cũng như lương dân, kẻ tội lỗi cũng như người công chính, cần phải đón nhận ân sủng của Thiên Chúa. Hãy nhớ rằng đó là thái độ căn bản để được cứu độ. Chúng ta đều là những tội nhân được Chúa tha thứ và không ai có thể tự tách mình ra để xét đoán nghiêm khắc anh em mình, nếu muốn đẹp lòng Thiên Chúa.
Các Perushim, những kẻ thanh sạch, như họ thường được kính trọng như thế, muốn trở thành những người tốt hơn nữa. Dân đen kính trọng họ và sợ họ, nhìn cách khâm phục việc họ tuân giữ cách tỉ mỉ tất cả các điều khoản của Luật. Qua thời gian, thanh danh của họ càng ngày càng lớn đến độ những người Sadducêô, giới quý tộc thời ấy, đã phải chấp nhận họ vào trong Thượng Hội Đồng và đền thờ mới phải thích nghi theo những chỉ dẫn phụng vụ của họ. Họ là một sức mạnh, mà các tư tế phải gờm, còn dân chúng thì thán phục. Đức Giêsu, trái lại, nêu lên những trái nghịch của họ: tại sao họ quan tâm đến những điều nhỏ nhặt mà lại bỏ qua điều chính yếu? Tại sao họ có thể quan tâm đến những điều riêng biệt mà sai lạc trong cái tầm nhìn tổng quát? Tại sao họ có thể gạn lọc con muỗi mà lại nuốt trửng cả con lạc đà? Không bằng lòng các biệt phái, nhưng không một ai dám nói ngược lại họ: đôi lúc những người đạo đức, ngay cả thời nay, không thích những chỉ trích. Còn đối với các tiến sĩ luật Đức Giêsu tố cáo là những người đặt gánh nặng trên vai người khác còn mình thì dù một ngón tay cũng không động vào.
Thứ Năm
Thánh nữ Têrêxa Avila
Thánh nữ Têrêxa Avila được tôn phong tiến sĩ Hội Thánh vì trong những tác phẩm, Ngài đã diễn tả và giải thích cho mọi người những bí quyết của đời sống thiêng liêng, với tất cả tâm hồn. Người ta thích thú đọc các tác phẩm của Ngài, vì lối văn tự nhiên, không phải như những sách thần học, nhưng như một cuộc đối thoại sống động với một phụ nữ đầy tràn Thiên Chúa, lối văn ấy thuật lại làm thế nào mà Ngài đã gặp gỡ Thiên Chúa trên mọi nẻo đường, làm thế nào Ngài đã hoạt động cùng với Chúa để thiết lập các cộng đoàn dòng Kín mọi nơi, là những trung tâm của đời sống thiêng liêng.
Đoạn thư Roma (Rm 8, 26-27) gợi lên sự phong phú nội tâm của thánh nữ và chúng ta hiểu rằng tất cả giáo thuyết của ngài xuất phát từ một tâm hồn đã được Thánh Thần uốn nắn. Chính ngài nói về sức mạnh của những khao khát thiêng liêng; thật giống như những tiếng rên, mà Phaolo nói đến: ‘Thần khí đến trợ giúp sự yếu hèn của chúng ta, cầu thay cho chúng ta bằng những tiếng rên khôn tả’. Sự sống ‘thuộc linh’ này kết hiệp thánh nữ với Ba Ngôi.
Lời nguyện cầu của chúng ta là chính hoạt động của Thiên Chúa, của Thần Khí, nếu đó là lời cầu nguyện chân thực và mang tính kitô. Không phải là những lời của sự khôn ngoan loài người, không phải là sáng tạo của con người: là hoạt động của Thần Khí trong chúng ta, đấng thấm nhập vào con người chúng ta, biến đổi chúng ta để hướng về Thiên Chúa, để gia tăng trong ta lòng khát khao Thiên Chúa. Tiếng kêu của Thánh Thần trong ta được diễn tả qua lời ca nhập lễ: ‘Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa. Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống’, vì chúng ta đã cảm nếm được sống trong Thiên Chúa. ‘Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì: có mối tương quan giữa điều Thiên Chúa ước muốn nơi ta và điều Thần Khí thực hiện nơi ta theo ý Thiên Chúa.
Tất cả những điều đó là để chúng ta nên giống Người Con, vì ‘những ai Ngài đã biết, thì Ngài đã tiền định để họ nên đồng hình đồng dạng với Con Ngài’. Thần Khí được ban cho ta qua Chúa Con. Nhờ Lời của Con mà ta có thể nhận lãnh Thần khí; và nhờ hy lễ của Chúa Con mà ta nhận được sự sống của Thiên Chúa, sự sống của Thần Khí: nước hằng sống, biểu tượng của Chúa Thánh Thần, từ nay kết hiệp nên một với máu chảy ra từ cạnh sườn của Đức Kitô; nên qua Đức Kitô, ta nhận được Thần Khí, để hướng lòng ta về với Chúa Cha, biến ta nên giống Chúa Con.
Như thế tâm hồn chúng ta là nơi ngự của Ba Ngôi Thiên Chúa. Cầu xin Chúa cho ta biết sống tín thác nơi Ngài như thánh nữ Têrêxa, để mở lòng ra cho tác động của Thánh Thần từ Đức Giêsu mà đến và dẫn đưa ta đến cùng Chúa Cha.
Đoạn tin mừng hôm nay Đức Giêsu quở trách các tiến sĩ luật: 1) Họ xây dựng mồ mả của các ngôn sứ mà các cha ông của họ đã giết vì các vị này đã loan báo Lời Thiên Chúa; họ cũng tìm cách để giết vị ngôn sứ cao trọng hơn hết, Đức Giêsu. 2) Các tiến sĩ luật tự hào vì chỉ mình họ mới có quyền giải thích Kinh Thánh và cho biết ý muốn của Thiên Chúa. Họ tin rằng mình là thẩm quyền duy nhất đưa con người đến sự nhận biết Thiên Chúa và sự sống vĩnh hằng; vậy mà họ chối từ Đức Giêsu và ngăn trở người khác tìm đến với Thiên Chúa và sự sống vĩnh cửu. Lý do các lời quở trách của Đức Giêsu đối với các tiến sĩ luật là vì họ khước từ Đức Giêsu. Ngài chính là vị tiên tri của Thiên Chúa, là Đấng ôm trọn vẹn tất cả mọi lời sứ ngôn. Ngài là chìa khóa của sự hiểu biết: ‘Không ai biết Con trừ ra Cha và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho’. Tội nặng nhất của các tiến sĩ luật là: không nhận biết Đức Giêsu, mà còn ngăn trở không cho dân chúng nhận biết Ngài. Căn nguyên tội của họ ở việc họ chuộng sự khôn ngoan người phàm hơn là khôn ngoan của Thiên Chúa, được biểu tỏ nơi Đức Giêsu.
Cha ông của họ đã giết các ngôn sứ để khỏi phải hối cải và bây giờ chính họ tìm cách giết Đức Kitô. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa luôn bị bách hại, chối từ, bởi lẽ đó là sự khôn ngoan của thập giá. Sự gian ác của con người đạt đến đỉnh cao trên đồi Calvê, nhưng cũng chính là giây phút Đức Giêsu đạt đến đỉnh cao lòng nhân lành của thiên Chúa. Máu của Abel, người công chính đầu tiên bị giết chết, đã từ đất kêu thấu đến trời cao (St 4,10), thì máu của Đức Giêsu rửa sạch mọi vết nhơ. Dacaria, vị ngôn sứ cuối cùng trước khi chết đã thốt lên: ‘Chúa sẽ tính sổ với chúng’, nhưng Đức Giêsu trên thập giá lại xin: ‘Lạy Cha, xin tha cho chúng’ (Lc 23,24).
Các tiến sị luật đã cất bỏ chìa khóa để mở vào sự nhận biết Thiên Chúa, vì họ trình bày một vị Thiên Chúa không có lòng thương xót. Chính họ cách xa Thiên Chúa, mà họ còn làm cho kẻ khác cũng xa cách Ngài. Thập giá là chìa khóa để đi vào sự hiểu biết Thiên Chúa.
Thứ Sáu
Được kể là công chính vì đã tin
Trong truyền thống do thái, Abraham được xem là mẫu gương sự vâng phục đức tin, là người công chính tuyệt vời, bởi vì ông đã chẳng ngại dâng đứa con duy nhất mình làm hy lễ cho Thiên Chúa. Phaolô lý luận: Abraham được công chính hóa trước khi dâng Isaác làm hy tế, vì ông đã được công chính hóa nhờ lòng tin vào lời hứa của Thiên Chúa, cho dù xem ra chẳng còn gì để mà hy vọng.
Phaolô viết: ‘Thánh kinh nói gì? Ông Abraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính’. Tính nhưng không của sự công chính mà Thiên Chúa ban tặng cho kẻ tin vào Ngài, lại càng hiển nhiên hơn nữa trong trường hợp một người tội lỗi. Thánh Kinh viết: ‘Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung’. Để được cứu thoát, cần gắn bó với Thiên Chúa bằng hành vi đức tin. Là thái độ căn bản trong đời sống thiêng liêng: tin rằng không phải những việc chúng ta làm đáng giá, nhưng chính là sự thánh thiện của Thiên Chúa mà ta đón nhận với lòng tin.
Rồi sau mới đến các việc ta làm, lúc này các việc làm là các việc làm của đức tin, những việc làm nhờ ân sủng chúng ta mới có thể thực hiện được.
‘Anh em đừng sợ, hỡi đoàn chiên bé nhỏ, Cha anh em biết điều gì anh em cần’. Nếu ta sống bé nhỏ trước mặt Thiên Chúa, ta sẽ luôn sẵn sàng xin ngài tha thứ; nếu ta sống phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa, đấng mặc đẹp cho hoa đồng nội và nuôi sống chim trời..thì niềm tin của ta sẽ là nền tảng chắc chắn để tiến bước về phía trước. Ngược lại, đức tin của ta sẽ chỉ là những thực hành bề ngoài, hay còn tệ hơn nữa chỉ như nhúm men hư, làm hại cả đấu bột.
Cảm tạ tình yêu Chúa và xin Ngài gia tăng đức tin cho chúng con. Tin cậy vào Chúa, con không còn lo sợ nỗi gì!
Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi
Trước đám đông vây quanh để nghe, Đức Giêsu ngỏ lời cách riêng cho các môn đệ, ‘anh em hãy coi chừng men pharisêu, tức là thói đạo đức giả’. Những lời khích lệ của Đức Kitô được đặt trong một bối cảnh bách hại và chống đối là hiện trạng của các môn đệ. Họ được khích lệ không làm theo như các biệt phái, vì lời nói của các biệt phái không phù hợp với điều họ nghĩ. Họ được mời gọi làm chứng cho niềm tin của họ bằng bất cứ giá nào, bởi vì không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra. Đức Giêsu đến để cất khỏi con người những chiếc màn dối trá và phục hồi cho con người chân lý của người con, hoàn toàn được Chúa Cha yêu mến. Chắc chắn những kẻ tin thấy sợ hãi khi đứng trước nguy hiểm của cuộc bách hại, của một việc làm chứng khó khăn. Tuy nhiên chỉ có một sự mất mát không thể tìm lại được: ‘Hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hỏa ngục’. Thái độ căn bản của những kẻ tin không đặt nền trên sự sợ hãi. Phải tỉnh thức để bảo vệ. Thiên Chúa chăm sóc cả những con chim sẻ. Lý nào Người lại quên các môn đệ của ngài. ‘Ngay cả tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi’. Điều đó muốn nói rằng ta đang sống trong một thế giới của tình yêu và phó thác. Thiên Chúa yêu thương ta, nâng đỡ ta bằng cánh tay mạnh mẽ của ngài, như nâng đỡ Đức Giêsu trên trần thế. Tuy nhiên lời sau cùng là lời này: ‘Anh em đừng sợ’.
Thứ Bảy
Thánh Inhaxiô thành Antiokia
Đức trông cậy là một trong ba nhân đức đối thần (tin, cậy, mến): cậy dựa vào niềm tin để dấn thân trong tình mến. Trông cậy chẳng khác nào người hướng về đỉnh núi cao: muốn đạt đến đỉnh, phải vượt mọi trở ngại để có thể chiêm ngưỡng cảnh đẹp từ trên cao.
Thánh Inhaxiô thành Antiokia tràn đầy hy vọng; không giống như những người Phaolô nói đến trong thư gởi tín hữu Philiphê, không có niềm hy vọng vì họ chỉ ‘nghĩ đến những sự thế gian’. Thánh nhân ngời sáng trước mắt chúng ta như một vị thánh đầy lòng nhiệt thành và tình yêu. Đôi lúc làm ta phải hổ thẹn vì cách ứng xử của chúng ta trước những thử thách trong cuộc sống. Những đau khổ xảy đến không phải là nguyên cớ làm suy giảm nhưng để gia tăng lòng cậy trông vào Chúa. ‘Tôi là hạt lúa mì của Đức Kitô. Chớ gì hàm răng thú dữ nghiền nát để trở nên tấm bánh tinh tuyền’.
Các Tông Đồ, chứng nhân loan loan báo ơn cứu độ mà Đức Kitô thực hiện bằng cái chết và sự sống lại của Ngài. Là chứng nhân ngay cả trước tòa án, khi bị cấm không được nói đến danh Đức Giêsu: ‘Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm’. Thánh Thần sẽ được ban tặng để trợ giúp họ can đảm bác bỏ mọi sai lạc và sống trong sự thật.